Lịch sử hoạt động Supermarine_Spitfire

Phục vụ ban đầu trong Không quân Hoàng gia

Chiếc Spitfire đầu tiên được đưa vào phục vụ trong Không quân Hoàng gia tại Phi Đội 19 tại căn cứ Không quân Hoàng gia Duxford vào ngày 4 tháng 8 năm 1938, và trong những tuần lễ sau đó chiếc máy bay được giao hàng với tộc độ một chiếc mỗi tuần cho cả phi đội 19 và 66 (cùng đặt căn cứ tại Duxford). Phi đội tiếp theo được trang bị Spitfire là Phi đội 41 đóng tại căn cứ Không quân Hoàng gia Catterick, sau đó là các phi đội đóng tại căn cứ Không quân Hoàng gia Hornchurch tại Essex. Cuộc ra mắt công chúng lần đầu tiên của chiếc Spitfire sơn màu của Không quân Hoàng gia là vào Ngày Hàng Không Đế Chế 20 tháng 5 năm 1939 tại cuộc trưng bày ở Duxford, trong đó một phi công đã đáp bằng bụng máy bay của anh sau khi quên hạ càng đáp và bị Bộ Hàng Không phạt 5 Bảng sau đó. Khi Thế Chiến II nổ ra, có khoảng 400 chiếc Spitfire đang phục vụ trong Không quân Hoàng gia, và thêm khoảng 2.000 chiếc đang được đặt hàng.[8]

Trong một sự kiện được biết dưới tên Trận chiến Barking Creek vào ngày 6 tháng 9 năm 1939, máy bay Spitfire đã bắn vào một cặp Hawker Hurricane không may mắn thuộc Phi đội 56 Không quân Hoàng gia. Những chiếc Hurricane bị bắn rơi bởi những chiếc Spitfire thuộc Phi đội 74 Không quân Hoàng gia trong một sự cố bắn nhầm bên trên bầu trời Medway, dẫn đến cái chết của Thiếu úy Montague Leslie Hulton-Harrop, phi công Anh đầu tiên thiệt mạng trong Thế Chiến II.

Trận chiến Anh Quốc

R.J. Mitchell và kiểu máy bay Spitfire thường được cho là tạo nên chiến thắng của Trận chiến Anh Quốc. Đây là một quan điểm thường được truyền bá trong văn hóa đại chúng, như trong phim The First of the Few. Tuy nhiên, việc duy trì tinh thần của nhân dân dưới các trận không kích mang tính sống còn, không nghi ngờ gì, chiếc Spitfire và những truyền thuyết của nó góp phần vào công cuộc này.

Spitfire là một trong những máy bay tốt nhất của cuộc chiến; ngay cả các phi công, sử gia và người thường đều thường cho rằng nó có tính lôi cuốn thẩm mỹ nhất. Tuy vậy, nó thường được so sánh với chiếc Hawker Hurricane, vốn được sử dụng với số lượng lớn trong những giai đoạn khó khăn của năm 1940. Mặc dù những chiếc Spitfire và Hurricane đời đầu đều trang bị vũ khí giống nhau (tám súng máy 7,696 mm/0,303 inch), việc sắp xếp các khẩu súng trên chiếc Hurricane tốt hơn, cho phép có một sơ đồ hỏa lực chụm hơn. Một tốc độ tối đa thấp hơn và tính năng bay kém hơn ở tầm cao làm cho những chiếc Hurricane trở nên mong manh hơn đối với những máy bay tiêm kích hộ tống Đức. Khi nào có thể, chiến thuật của Không quân Hoàng gia trong Trận chiến Anh Quốc là sử dụng các phi đội Hurricane để tấn công các máy bay ném bom, giữ lại những chiếc Spitfire để đối phó những máy bay tiêm kích hộ tống Đức. Tính chung, Hurricane bắn rơi nhiều máy bay của Không quân Đức hơn chiếc Spitfire, cả tiêm kích lẫn ném bom, chủ yếu là do thành phần nhiều hơn của Hurricane trên bầu trời. Bảy trong mỗi mười máy bay Đức bị tiêu diệt trong Trận chiến Anh Quốc là do phi công Hurricane. Thiệt hại cũng lớn hơn do số lượng máy bay Hurricane nhiều hơn. Phân tích sau chiến tranh cho thấy mặc dù được sử dụng với số lượng ít hơn, tỉ lệ thắng-thua của chiếc Spitfire có nhỉnh hơn chiếc Hurricane.[9]

Các kiểu Mark I và Mark II phục vụ trong suốt trận chiến và sau đó đến tận năm 1941. Cả hai đều được trang bị tám súng máy Browning 0,303 inch. Rất thường gặp trong quá trình Trận chiến Anh Quốc, các máy bay Đức có thể quay trở về căn cứ an toàn với số lượng nhiều đáng ngạc nhiên các lỗ đạn 0,303 inch vì các máy bay Không quân Đức nhận được nhiều vỏ giáp tiến bộ hơn tại các vùng trọng yếu. Việc sử dụng một số lượng nhỏ hơn súng máy nặng có cỡ nòng lớn hơn sẽ mang lại hiệu quả hơn, và điều này được điều chỉnh trong các phiên bản Spitfire tiếp theo. Kiểu Mark V đưa vào hoạt động từ đầu năm 1941 và là phiên bản đầu tiên được trang bị pháo tự động hiệu quả và tin cậy (phiên bản Mark IB của 19 phi đội từng được thử gắn hai pháo Hispano-Suiza HS.404 20 mm vào năm 1940, cho dù việc thường xuyên tắc nghẽn làm cho kiểu này bị thay thế bằng máy bay vũ trang thông thường vào tháng 9 năm 1940). Cấu hình "B" gồm hai pháo 20 mm và bốn súng máy 0,303 inch trở thành tiêu chuẩn trong những năm giữa của chiến tranh.

Một kiểu máy bay đương thời, chiếc Messerschmitt Bf 109 của Không quân Đức, có kích thước, tính chất và tính năng bay tương tự với chiếc Spitfire. Một vài lợi thế vốn có giúp cho chiếc Spitfire chiến thắng nhiều trận không chiến, đáng chú ý nhất là độ cơ động: chiếc Spitfire có tốc độ quay vòng lớn hơn chiếc Messerschmitt. Tầm nhìn từ buồng lái tốt cũng có thể là một yếu tố, vì những chiếc Bf 109 đời đầu có một ngăn chật hẹp với các cửa sổ gồm khung gắn nhiều tấm. Công bằng mà nói, chúng ít gây ra sự méo hình ảnh hơn nóc buồng lái được "thổi" từ kính Plexiglass. Khi các phi công Đức thấy cái mà họ nghĩ là chiếc Spitfire mà không rõ kiểu máy bay thực sự, họ thường gọi cho nhau qua vô tuyến và nói "Achtung! Schpitfeur" (Coi chừng, Spitfire đấy), mà sau này dẫn đến cái được gọi là "nỗi ám ảnh Spitfire". Tại Malta, không có khả năng tung ra một cuộc tấn công, một phi công Canada được trang bị một bộ radio đặt trên mặt đất, đã ra những mệnh lệnh giả bằng tiếng Đức và hậu quả là hai chiếc Bf 109 đã bắn rơi lẫn nhau trong sự hoảng loạn tưởng là có một chiếc Spitfire đang đến.[10]

Trong giai đoạn phát triển đầu tiên, động cơ Merlin không được phun nhiên liệu trực tiếp, nên cả Spitfire lẫn Hurricane, không như chiếc Bf 109E, không thể chúc đầu máy bay để bổ nhào lâu được. Điều đó có nghĩa là những máy bay tiêm kích Đức chỉ cần đơn giản bổ nhào hết ga để thoát khỏi cú tấn công, để lại chiếc Spitfire bị khục khắc đàng sau vì nhiên liệu bị gia tốc G âm đẩy hết ra khỏi bộ chế hòa khí. Phi công tiêm kích Không quân Hoàng gia không lâu sau học được cách "lộn nữa vòng" máy bay của họ trước khi bổ nhào nhằm tấn công đối thủ. Việc sử dụng bộ chế hòa khí không phun nhiên liệu đã được tính toán để cung cấp công suất đặc dụng do nhiệt độ thấp, và do đó có nồng độ hỗn hợp nhiên liệu-khí cao hơn được nạp vào động cơ so với hệ thống phun nhiên liệu. Vào tháng 3 năm 1941, một màng chắn kim loại có một lỗ thủng được gắn ngang buồng nổi của bộ chế hòa khí. Nó cải thiện được phần nào vấn đề thiếu hụt nhiên liệu khi bổ nhào, và được biết đến dưới cái tên "cái lỗ của cô Shilling" vì nó được phát minh bởi một nữ kỹ sư, Beatrice "Tilly" Shilling. Các cải tiến khác được đưa ra trong suốt quá trình phát triển loạt động cơ Merlin, với việc phun nhiên liệu trực tiếp được áp dụng vào năm 1943. Việc sản xuất phiên bản Spitfire Mk XII trang bị động cơ Griffon đã được bắt đầu một năm trước đó.

Tấn công châu Âu 1941-1943

Việc chiếc Focke-Wulf Fw 190 được đưa vào hoạt động vào cuối năm 1941 dọc theo Eo biển Anh Quốc gây một cú sốc cho Bộ chỉ huy Tiêm kích Không quân Hoàng gia; chiếc máy bay tiêm kích Đức mới tỏ ra vượt trội hơn phiên bản Mark VB đang có trong mọi tính năng ngoại trừ đường kính quay vòng. Số máy bay Spitfire của Bộ chỉ huy Tiêm kích bị thiệt hại nặng nề, và ưu thế trên không chuyển sang phía Không quân Đức hầu như trong suốt năm 1942, cho đến khi phiên bản Mark IX trang bị động cơ Merlin 61 bắt đầu hoạt động với số lượng đáng kể. Trong một cố gắng nhằm đạt được một ít độ cân bằng so với chiếc Fw 190, một số phi đội vẫn đang sử dụng phiên bản Mark V nhận được sự cải tiến đặc biệt với đầu cánh được cắt bớt bốn feet (để cải thiện tốc độ lộn vòng) và giảm số cánh quạt trong bộ siêu tăng áp động cơ Merlin để có tính năng hoạt động tối ưu ở độ cao thấp. Những máy bay này được đặt tên chính thức là LF Mark V, nhưng cũng được các phi công gọi là "Clipped, Clapped and Cropped Spit" (Spitfire bị cắt, vỗ, xén), cũng mang một ý nghĩa khác là trong thực tế nhiều chiếc Spitfire như vậy sau khi cải tiến, sẽ có được những ngày tươi sáng hơn.

Khi chiến dịch ném bom chiến lược Mỹ được chuẩn bị tung ra vào giữa năm 1943, nhu cầu cần có máy bay tiêm kích hộ tống khiến phần lớn lực lượng Spitfire của Bộ chỉ huy Tiêm kích được dùng cho vai trò này, khi mà các phi đoàn tiêm kích Mỹ vẫn còn đang được chuẩn bị. Tuy nhiên, tầm bay không đủ dài của chiếc Spitfire khiến các hoạt động hỗ trợ từ phía Không quân Hoàng gia chỉ giới hạn ở phía Bắc nước Pháp và eo biển Anh Quốc. Khi cuộc chiến ngày càng ác liệt trên phần đất châu Âu bị chiếm đóng, những máy bay tiêm kích của Không lực Mỹ như P-47, P-38P-51 chịu đựng gánh nặng bảo vệ những chiếc máy bay ném bom. Các phi đội Spitfire IX phải chờ cho đến thời gian của chúng, cho đến lúc tấn công châu Âu, trước khi đối địch một cách toàn diện với lực lượng tiêm kích của Không quân Đức.

Mặt trận Địa Trung Hải

Những chiếc Spitfire đầu tiên có mặt chiến đấu tại nước ngoài là phiên bản Mark V cất cánh từ sàn đáp tàu sân bay HMS Eagle đến Malta vào tháng 3 năm March 1942. Trong những tháng tiếp theo sau, khoảng 275 chiếc Spitfire được giao đến hòn đảo bị bao vây. Để đối phó tình trạng bụi bặm thường gặp, chiếc Spitfire được gắn một bộ lọc không khí Vokes to dưới mũi máy bay, làm giảm tính năng bay do tăng lực cản trên chiếc máy bay. Phiên bản Spitfire V, và sau này là phiên bản Mark VIII được cải tiến nhiều hơn và tầm bay xa hơn, không lâu sau đã sẵn sàng để hoạt động tại Mặt trận Bắc Phi, và từ đó về sau, đóng vai trò chủ yếu trong Không quân Hoàng gia, Không quân Nam Phi và Không lực Lục quân Hoa Kỳ trong các chiến dịch tại Sicilia và Italy.

Sau khi Mussolini bị hạ bệ và thỏa thuận đình chiến vào ngày 9 tháng 9 năm 1943, Không quân Co-Belligerent Italy (ICAF) bắt đầu được trang bị những chiếc máy bay Spitfire Mk V dư ra trong các phi vụ tấn công mặt đất được thực hiện tại Albania kể từ ngày 23 tháng 10 năm 1944. Đến ngày 31 tháng 12 năm 1944 có 17 chiếc Mk V Spitfire được đưa vào hoạt động, và sau đó sở hữu được tổng cộng 40 chiếc MK V. Hai chiếc Spitfire Italy đã bay phi vụ cuối cùng trong cuộc chiến tranh tại châu Âu vào ngày 5 tháng 5 năm 1945.[11]

châu Á và Thái Bình Dương

Không quân Hoàng gia Australia, Không quân Hoàng gia Ấn Độ và Không quân Hoàng gia Anh cũng sử dụng những chiếc Spitfire để chống lại các lực lượng Nhật Bản tại Mặt trận Thái Bình Dương. Những chiếc Spitfire đầu tiên tại Viễn Đông là hai chiếc máy bay phiên bản trinh sát hình ảnh (PR IV) bắt đầu hoạt động từ tháng 10 năm 1942. Các trận không kích của Nhật Bản vào phía Bắc Australia trong những năm 1942-1943 đã thúc đẩy sự thành lập Phi đoàn 1 Không quân Hoàng gia Australia vào cuối năm 1942 (bao gồm Phi đội 54 Không quân Hoàng gia Anh, các Phi đội 452 và 457 Không quân Hoàng gia Australia), được trang bị Spitfire Vb. Phi đoàn này đến Darwin vào tháng 2 năm, và tham gia chiến đấu thường xuyên cho đến tận tháng 9. Tại chiến trường Ấn Độ-Miến Điện, những chiếc Spitfire V đầu tiên chỉ có mặt vào tháng 9 năm 1943. Những chiếc Spitfire phiên bản Mk VIII được giao cho Không quân Hoàng gia Australia vào tháng 4 năm 1944. Phi công Spitfire tại châu Á và Thái Bình Dương đã rất ngạc nhiên khi khám phá ra rằng họ không thể đuổi theo nhiều kiểu máy bay tiêm kích Nhật Bản, như là chiếc A6M-Zero, khi lượn vòng. Điều mỉa mai là, họ buộc phải áp dụng chiến thuật tương tự như các phi công Đức thường dùng khi phải đối mặt với những chiếc Spitfire: sử dụng tốc độ cao đặc biệt là khi bổ nhào, để tấn công nhào xuống, vào những chiếc máy bay Nhật vốn đã đạt đến giới hạn của tầm bay.

Ngày D và sau đó

Sau cuộc Đổ bộ Normandy, các phi đội Spitfire được chuyển sang bên kia Eo biển Anh Quốc, hoạt động từ các sân bay chiến thuật dã chiến gần tiền duyên đối phương. Vì các lực lượng không quân Đồng Minh đã chiếm được ưu thế trên không, phi công Spitfire ít có dịp chiến đấu cùng máy bay tiêm kích Đức, tập trung những nỗ lực của họ trên lãnh thổ Đức để tấn công các mục tiêu dưới đất và hỗ trợ chiến thuật cho các đơn vị lục quân. Hệ thống làm mát động cơ Merlin bằng glycol tỏ ra đặc biệt mong manh trước hỏa lực mặt đất cỡ nhỏ, chỉ cần một viên đạn không đúng chỗ là đủ để làm hỏng động cơ.

Những phiên bản Spitfire mới hơn và nhanh hơn được giữ lại nước Anh để đối phó cuộc tấn công của những trái bom bay V-1 Đức từ giữa năm 1944, cho dù những máy bay này cũng được bố trí bên kia Eo biển Anh Quốc trước khi cuộc chiến tại châu Âu kết thúc.

Phục vụ sau chiến tranh

Sau Thế Chiến II, Spitfire được giữ lại phục vụ trong không lực của nhiều nước trên thế giới, và tiếp tục sử dụng cho đến tận thập niên 1960.

Châu Âu

Không lâu sau khi Thế Chiến II kết thúc, Không quân Thụy Điển trang bị cho Phi đoàn trinh sát hình ảnh F 11 tại Nyköping (phía Nam Stockholm) với 50 chiếc Mk XIX, được đặt tên là S 31. Nhiều phi vụ trinh sát hình ảnh được chiếc S 31 thực hiện vào cuối những năm 1940 đưa đến việc vi phạm trắng trợn không phận Xô Viết, và ít nhất một lần không phận Phần Lan, nhằm ghi nhận các hoạt động bố trí căn cứ của không lực và hải lực Xô Viết tại khu vực Baltic và Kola. Vào lúc đó không có chiếc máy bay tiêm kích Xô Viết nào có thể đạt đến trần bay hoạt động của chiếc S 31. Không có chiếc máy bay Thụy Điển nào bị mất trong các hoạt động bí mật này. Tuy nhiên cho đến đầu những năm 1950, lực lượng phòng không Xô Viết đã trở nên hiệu quả đến mức các hoạt động đó phải chấm dứt. Những chiếc S 31 được thay thế bằng những chiếc SAAB S 29C động cơ phản lực vào giữa những năm Thập niên 1950.

Những chiếc Spitfire đã đóng vai trò quan trọng trong cuộc Nội chiến Hy Lạp, được Không quân Hoàng gia Anh và Không quân Nam Phi sử dụng vào tháng 10 đến tháng 12 năm 1944, và bởi Không quân Hy Lạp từ năm 1946 đến cuối cuộc chiến vào tháng 8 năm 1949.

Sau Thế Chiến II, tám chiếc Spitfire Mk V còn bay được của Không quân Italy được bổ sung bởi 145 chiếc Mk IX (sở hữu trong hai đợt gồm 60 và 85 máy bay). Những chiếc Spitfire được đưa vào hoạt động trong các Phi đoàn 51 và 5 thực hiện các phi vụ trinh sát tại Balkans cũng như phối hợp cùng Lục quân Italy và thực hiện nhiệm vụ phòng thủ. Được các phi công ưa chuộng, Spitfire cũng tham gia nhiều cuộc đua hàng không sau chiến tranh tranh các giải thưởng bao gồm giải Zerbinati. Những chiếc Spitfire Mk IX phục vụ cho đến năm 1950-1952 khi một nhóm nhỏ gồm 30 còn lại được cung cấp cho Không quân Israel (HHA); rồi sau đó, những máy bay cũ của Italy được gửi cho Miến Điện vào năm 1954-1955.[11] Ngày hôm nay, một chiếc Spitfire Mk IX của Không quân Italy, số hiệu MM.4084, đang được trưng bày tại Vigna di Valle, Roma.

Trung Đông

Spitfire tham gia những trận chiến cuối cùng trong Chiến tranh Ả-rập-Israel 1948, khi mà, trong sự ngoắt ngoéo lạ lùng, những chiếc Spitfire của Không quân Israel được lái bởi những cựu phi công của Không quân Hoàng gia Anh như Ezer Weizman đã giao chiến cùng những chiếc Spitfire của Không quân Ai Cập và của Không quân Hoàng gia Anh.